越南语文化 浅析越南语的翻译艺术[越南语论文]

资料分类免费越南语论文 责任编辑:阮圆圆更新时间:2017-06-19
提示:本资料为网络收集免费论文,存在不完整性。建议下载本站其它完整的收费论文。使用可通过查重系统的论文,才是您毕业的保障。
Dịch thuật, một vấn nạn ngôn ngữ 23.12.01
Dịch thuật có liên quan mật thiết đến việc phân tích và so sánh cấu trúc ngữ pháp các ngôn ngữ. Những thành quả nghiên cứu của ngôn ngữ học hiện đại có thể được áp dụng như thế nào trong việc này, cụ thể hơn nữa là trong việc dịch từ các thứ tiếng như tiếng Anh và tiếng Ðức sang tiếng Việt? Dũng Vũ, tác giả công trình nghiên cứu Tiếng Việt và Ngôn ngữ học hiện đại - Sơ khảo về cú pháp, sắp xuất bản, tìm cách trả lời câu hỏi này trong bài viết sau.
Xưa nay đã có nhiều cuộc bàn luận về dịch thuật. Người ta có thể bàn đủ thứ, song có lẽ ít ai nhận ra cái hệ quả tai hại của dịch thuật, đặc biệt là giới dịch thuật khoa học nhân văn.
Hầu hết người dịch chỉ quan tâm đến cái khó của dịch thuật là làm sao chuyển tải chính xác ý tưởng một văn bản được viết bằng một thứ ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ dịch. Dịch văn đã khó, dịch thơ càng khó nữa. Ðại để, người ta chỉ chú tâm vào khía cạnh ấy và xem đó như một vấn đề.
Tuy nhiên, đó không phải là vấn đề chính. Cái vấn đề chính là dịch thuật có thể phá hư ngôn ngữ mà ít ai để ý. Phải xem đấy là vấn nạn thì đúng hơn và tiếng Việt là một nạn nhân điển hình của vấn nạn dịch thuật.
Không cần học ngôn ngữ học, không cần hiểu biết các lý thuyết ngữ pháp phức tạp, ai cũng biết, mỗi ngôn ngữ đều có cấu trúc riêng, nếu anh/chị ấy biết ít nhất hai ngôn ngữ. Ngôn ngữ không bất định mà có ngữ pháp. Mỗi ngôn ngữ đều có ngữ pháp riêng. Ngữ pháp của một ngôn ngữ không phải là cái gì ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống mà có quy tắc và logic, nó là kết quả của nguyên tắc hành ngôn đặc thù. Ví dụ tiếng Anh là một loại ngôn ngữ tuyến tính, tiếng Ðức không tuyến tính, tiếng Việt là một ngôn ngữ tịnh tiến (1). Nhờ thẩm năng ngôn ngữ, con người sẽ nhận ra ngay, một câu nói có phải là ngôn ngữ mà mình thông thạo hay không. Thử xem một ví dụ, Lê Văn Lý (1948) dùng 5 chữ tạo ra nhiều câu:
Sao nó bảo không đến?
Sao bảo nó không đến?
Sao không đến bảo nó?
Sao nó không bảo đến?
Sao? Ðến bảo nó không?
Sao? Bảo nó đến không?
Nó đến, sao không bảo?
Nó đến, không bảo sao?
Nó đến bảo không sao.
Nó bảo sao không đến?
Nó đến, bảo sao không?
Nó bảo đến không sao.
Nó bảo không đến sao?
Nó không bảo, sao đến?
Nó không bảo đến sao?
Nó không đến bảo sao?
Bảo nó sao không đến?
Bảo nó: Ðến không sao.
Bảo sao nó không đến?
Bảo nó đến, sao không?
Bảo nó không đến sao?
Bảo không, sao nó đến?
Bảo! Sao, nó đến không?
Không bảo, sao nó đến?
Không đến bảo nó sao?
Không sao, bảo nó đến.
Không bảo nó đến sao?
Không đến, bảo nó sao?
Không đến, nó bảo sao?
Ðến bảo nó không sao.
Ðến không? Bảo nó sao?
Ðến không? Nó bảo sao?
Ðến, sao không bảo nó?
Ðến bảo nó sao không?
Ðến, sao nó không bảo.
Ðến, nó bảo không sao.
Ðến, nó không bảo sao?
Ðến, sao bảo nó không?

Với trò chơi hoán vị 5 từ bên trên, theo lý thuyết, ta sẽ được 120 chuỗi từ khác nhau (theo công thức 5! [5 giai thừa]). Song thực ra chỉ có 38 chuỗi từ nói được. Tạm cho là vậy, nhưng thế nào là nói được? Tại sao người Việt thấy câu “Nó đến, sao bảo không?” nói được nhưng câu “Nó đến không sao bảo” thì không nói được? Người Việt còn có cảm giác ấy, nhưng người ngoại quốc không rành tiếng Việt thì sao? Cảm thấy một câu, một thành tố, một chuỗi từ, một cụm từ nói được bởi vì trong vô thức của từng người Việt đã tồn tại sẵn cái kho tàng cấu trúc tiếng Việt. Chỉ có những cấu trúc nhất định người Việt mới chấp nhận.
Với trò chơi hoán vị 5 từ bên trên, theo lý thuyết, ta sẽ được 120 chuỗi từ khác nhau (theo công thức 5! [5 giai thừa]). Song thực ra chỉ có 38 chuỗi từ nói được. Tạm cho là vậy, nhưng thế nào là nói được? Tại sao người Việt thấy câu “Nó đến, sao bảo không?” nói được nhưng câu “Nó đến không sao bảo” thì không nói được? Người Việt còn có cảm giác ấy, nhưng người ngoại quốc không rành tiếng Việt thì sao? Cảm thấy một câu, một thành tố, một chuỗi từ, một cụm từ nói được bởi vì trong vô thức của từng người Việt đã tồn tại sẵn cái kho tàng cấu trúc tiếng Việt. Chỉ có những cấu trúc nhất định người Việt mới chấp nhận.
Một ví dụ khác. Giả sử người Việt nói:
Một cô gái đẹp.
Cùng nội dung ấy, người Anh sẽ nói: “a pretty girl”, hoặc người Ðức: “ein schönes Mädchen”. Rõ ràng hai cấu trúc cú pháp khác nhau (2). Ðặt câu hỏi, vì sao người Việt không đặt tính từ “đẹp” trước danh từ “cô gái” mà nói “một đẹp cô gái” cho giống người Anh, người Ðức? Người Tàu nói một “mỹ nhân”. “Mỹ” là “đẹp”, “nhân” là “người”. Tại sao người Việt lại đi nói ngược thành “người đẹp”. Nói theo ngôn ngữ học là tại sao danh từ trong tiếng Hoa được bổ nghĩa bên trái, còn tiếng Việt thì bên phải?
Cái gì cũng có nguyên nhân của nó. Tiếng Việt là một ngôn ngữ thường dùng nguyên tắc đề diễn (theme/subject interpretation). Người Việt thường lập câu tịnh tiến để diễn đạt nguyên tắc này. Nguyên tắc đề diễn nói lên trình tự nhận diện và nhận thức về một đối tượng muốn diễn tả. Cái trình tự này giống như một hàm số vậy, trước nhất phải có phần tử gốc, rồi sau đó mới ứng dụng được một hàm số chọn lọc lên đó để được một phần tử ảnh. Ở ví dụ trên, đối tượng “một cô gái” chính là phần tử gốc. “Ðẹp” là hàm số. Kết quả là “một cô gái đẹp”, một phần tử ảnh. Ðiều này logic bởi vì trước nhất phải có “một cô gái” đã rồi mới xem có “đẹp” không. Trước nhất phải nhận diện được đối tượng rồi mới nhận thức xem đối tượng ấy ra sao. Bởi cái trật tự logic này không thể đảo ngược, cho nên người Việt mới nói xuôi. Trong khi đó, người Anh, người Ðức, người Tàu đều nói ngược. Do đó mà ngay điểm này, cấu trúc cú pháp của họ mới không giống cấu trúc cú pháp tiếng Việt. Ðiều họ nói ngược có lý do của nó. Nó có liên quan đến cấu trúc sâu (deep structure) và cấu trúc bề mặt (surface structure), hình thái ngôn ngữ, ... (không thể kể hết ra đây; xin xem chi tiết ở Chomsky 1979, Language and Responsibitity).
Như đã thấy, nguyên tắc hành ngôn tiếng Việt quyết định ngữ pháp. Ngữ pháp mà bị làm méo mó thì cả cái hệ thống nguyên tắc hành ngôn cũng bị ảnh hưởng lây. Theo thời gian, hạ tầng cơ sở tiếng Việt sẽ từ từ xuống cấp. Cuối cùng, đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ không còn ai đủ can đảm hoặc đủ khả năng giải thích nổi cái cấu trúc của tiếng Việt, bởi nó đã bị loạn chiêu hóa, phi logic hóa.
Xưa nay ngữ pháp tiếng Việt đã bị biến đổi một cách vô tình, chủ yếu là qua hoạt động dịch thuật và đa phần đều xuất phát từ dịch thuật khoa học nhân văn. Thiếu kiến thức ngôn ngữ học, người dịch có thể làm hư tiếng Việt lúc nào không biết. Biết thế nhưng làm sao có thể trách một người là đã đi sao y cái cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh, tiếng Pháp vào tiếng Việt trong khi người ấy không phân biệt được cấu trúc ngữ pháp của hai ngôn ngữ khác nhau thế nào? Cái khác biệt của từng ngữ pháp nói lên đặc điểm của từng ngôn ngữ, làm sao con người có thể nhận biết ngôn ngữ của mình có đặc điểm gì, tinh hoa gì mà không phải ngôn ngữ nào cũng có? Làm sao có thể trách người dịch khi họ không được trang bị những thức kiến tối thiểu về ngôn ngữ: Thành tố (constituent) là gì? Cấu trúc ngữ đoạn (pharse structure) là gì? Tiếng Việt có những quy tắc ngữ pháp nào? V.v. và v.v.. Có nhà trường nào dạy cho họ những thứ ấy hay không? Ðó là chưa kể có trường hợp người dịch sống lâu năm ở hải ngoại, bị bản ngữ ảnh hưởng nặng đến nỗi, khi dịch, họ đã vô tình phản chiếu hầu như 1-1 cái cấu trúc bề mặt của ngoại ngữ vào tiếng Việt. Hãy xem một vài ví dụ sau đây mà người dịch tưởng rằng người Việt nào nghe cũng lọt lỗ tai.
Câu bị động (passive sentence):
My father was fined by the police.
Ðây là cách lập câu bị động thông thường trong tiếng Anh. Nhiều người hay dịch sát chữ câu trên sang tiếng Việt:
Bố tôi bị phạt bởi công an.
Câu này bị lai cấu trúc tiếng Anh. Theo tính tịnh tiến của tiếng Việt, không ai hỏi:
Bố tôi bị phạt bởi ai?
Trong thực tế, người Việt không nói vậy mà nói:
Bố tôi bị công an phạt.
bởi cách trả lời này mang tính tịnh tiến:
Bố anh bị gì?
Từ đây có nhiều câu trả lời:
Bố tôi bị bệnh (hoặc thất nghiệp, phạt, lường gạt, v.v.)
Giả sử bị ai đó làm gì, người Việt sẽ hỏi:
Bố anh bị ai làm gì?
Từ đây mới có câu trả lời tịnh tiến, ví dụ:
Bố tôi bị công an phạt.
Bố tôi bị hãng sa thải.
Bố tôi bị người ta lường gạt.
Chứ không ai nói:
Bố tôi bị sa thải bởi hãng.
Bố tôi bị lường gạt bởi người ta.
Hoặc tương tự vậy, người Việt không nói:
Ông ta bị cắn bởi chó.
Ðứa con út được cưng chìu bởi bố mẹ.
Cuộc thi hoa hậu được tổ chức bởi hãng nước hoa Chanel.
Tội ác sẽ bị lên án bởi xã hội.
mà nói:
Ông ta bị chó cắn.
Ðứa con út được bố mẹ cưng chìu.
Cuộc thi hoa hậu do hãng nước hoa Chanel tổ chức.
Tội ác sẽ bị xã hội lên án.
Giả như “chó”,“bố mẹ”,“hãng nước hoa Chanel”,“xã hội” không đóng vai trò theta (q role) như một tác nhân (3), tức yếu tố gây ra hành động, đi chăng nữa, vẫn có trường hợp muốn diễn tả thái bị động (passive voice) mà người Việt không thể bắt chước y hệt cách lập câu của người Anh:
A mountain was seen in the distance.
* Một ngọn núi được trông thấy ở đằng xa. (4)
Câu dịch sát chữ như vậy không được tự nhiên vì chúng ta đã vô tình sao chép nguyên cấu trúc tiếng Anh vào câu tiếng Việt. Cách hành ngôn đó là của người Anh. Cách hành ngôn của người Việt khác:
Người ta thấy có một ngọn núi ở đằng xa.
Người ta thấy một ngọn núi ở đằng xa.
Có một ngọn núi ở đằng xa.
Cách hành ngôn trên mang tính tịnh tiến, ví dụ:
Hỏi: Người ta thấy gì?
Trả lời: Người ta thấy một ngọn núi.
Hỏi tiếp: ... ngọn núi nào/ở đâu.
Cuối cùng là câu trả lời: Người ta thấy một ngọn núi ở đằng xa.
Cả những cấu trúc đề diễn chứa mệnh đề chính (main clause) và mệnh đề phụ (subordinate clause) trong tiếng Anh tưởng chừng rất dễ dịch sang tiếng Việt, thế nhưng không hẳn thế:
It was I who knocked at your door.
Nguyên câu trên là mệnh đề chính. Ðoạn “who knocked at your door” là mệnh đề phụ. Ðây là hình thức câu chẻ (cleft sentence) rất thông dụng trong tiếng Anh. Nếu sao chép cấu trúc này vào tiếng Việt, chúng ta sẽ được một câu nghe khá lạ tai:
Ðó là tôi người đã gõ cửa phòng anh.
Người Việt không nói thế. Cao lắm họ nói:
Chính tôi đã gõ cửa phòng anh.
Hình thức câu chẻ trên hầu như không thấy trong tiếng Việt. Hoặc hình thức dùng “to”:
You forget to answer his letter.
* Anh quên để trả lời bức thư của hắn.
Người Việt không nói vậy mà thông thường là:
Anh quên trả lời thư hắn.
Anh quên trả lời bức thư của hắn.
Hoặc:
I’ll come to see you tomorrow.
Tôi sẽ tới để thăm anh ngày mai. *
Ðối với trường hợp này, vẫn có cách nói thuần túy Việt Nam:
Mai tôi sẽ tới thăm anh.
Ngày mai tôi sẽ tới thăm anh.
Nói chung, thay vì dùng “to” giữa hai động từ như người Anh, người Việt thường ghép hai động từ lại một: “quên trả lời”, “tới thăm”, ... Tất nhiên trong tiếng Việt cũng có cách dùng“để” mà thường bị hiểu nhầm là hoàn toàn đồng nghĩa với “to” của tiếng Anh hoặc “zu” của tiếng Ðức. Trong tiếng Việt, “để” nằm giữa hai động từ cốt để diễn tả một hành động nhằm mục đích gì, hoặc để diễn tả ý nghĩa nhằm mục đích gì:
Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn.
Sở dĩ tôi phải giải thích dông dài là để anh đừng hỏi nữa.
Tiếng Anh là một loại ngôn ngữ tuyến tính giống như tiếng Việt, đặc biệt là cấu trúc câu xác định, tuy vậy, hai ngôn ngữ không giống nhau hoàn toàn (các ví dụ trên đã cho thấy).
Ngữ pháp có thể bị người dịch thiếu hiểu biết vô tình làm hư mất. Nhưng lạ thay, đối với giới dịch thuật Việt Nam có lẽ điều này không đúng hẳn. Nhìn vào thực tế, ai cũng thấy có một hiện tượng khá lạ lùng là khi dịch tiếng Việt sang ngoại ngữ, người dịch cố gắng viết đúng ngữ pháp của ngoại ngữ ấy, ngược lại, khi dịch một ngoại ngữ sang tiếng Việt, người dịch lại sao chép cấu trúc ngữ pháp của ngoại ngữ ấy vào tiếng mẹ đẻ của mình. Ðây là một điểm yếu tiêu biểu của người Việt. Trong khi đó, lấy tiếng Ðức làm ví dụ, thử đọc bất cứ cuốn sách nào dịch sang tiếng Ðức, người đọc phải công nhận, người dịch luôn bảo đảm viết đúng ngữ pháp tiếng Ðức. Ðiều này chẳng có gì khó hiểu, bởi giới dịch thuật có bài bản là giới không những chỉ thành thạo ngôn ngữ một cách vô thức như người thường (hiểu theo Chomsky là người nói/nghe lý tưởng) mà còn có tri thức ngôn ngữ, nghĩa là ít nhiều gì họ cũng có học về ngôn ngữ học, trong đó, cú pháp (syntax) và ngữ nghĩa (semantic) là hai bộ môn bắt buộc. Lý do cần kiến thức cú pháp là để tránh vấn đề ngữ pháp, lý do cần kiến thức ngữ nghĩa là để tránh vấn đề diễn giải nội dung. Làm chủ kiến thức ngôn ngữ vẫn chưa đủ, họ còn có ý thức bảo vệ tính trong sáng của ngôn ngữ. Có thể nói rằng, kiến thức ngôn ngữ và ý thức ngôn ngữ là hai điều kiện căn bản bắt buộc mỗi người dịch thuật chuyên nghiệp phải có.
Thế thì chúng ta, mỗi người đã từng dịch thuật, hãy tự hỏi mình đã đạt được những điều kiện ấy chưa? Nên nhớ, viết hay chưa đủ mà còn phải viết đúng ngôn ngữ. Ðiều này hết sức quan trọng, vì khi người đọc tiếp thu cái sai của chúng ta, nó sẽ tiếp tục lây lan như bịnh dịch, làm tiếng Việt càng thêm bịnh.
Nói thế, chắc sẽ có ý kiến cho rằng, các ngoại ngữ mạnh như tiếng Anh chẳng hạn, nhờ cấu trúc đa dạng, họ có thể diễn đạt nội dung một cách phong phú, dễ dàng; điều này ta nên học hỏi. Theo tôi, cái nhìn này có vẻ thuần cảm xúc. Người có ý kiến ấy có lẽ chưa nhìn thấy mặt giới hạn của tiếng Anh. Hãy thử nhìn vào các lý thuyết nguyên thủy dựa trên ngữ pháp tiếng Anh như Ngữ pháp biến hình tạo sinh (Generative Transformation Grammar), Lý thuyết căn bản (Standard Theory), Lý thuyết căn bản mở rộng (Extended Standard Theory), Lý thuyết chi phối và ràng buộc (Government and Binding Theory [GB]), Nguyên tắc và thông số (Principles and Parameters [P&P]), Cực tiểu luận (Minimalism (MP]) của Chomsky (5). Quy tắc ngữ pháp được lập nên từ các lý thuyết đó đã phải được bổ sung, mở rộng để thỏa các cấu trúc ngôn ngữ khác mà tiếng Anh không có, ví dụ phần lớn quy tắc cấu trúc ngữ đoạn của tiếng Anh chỉ là một tập hợp con của tiếng Việt (tất nhiên tiếng Anh cũng có các cấu trúc mà tiếng Việt không có). Cụ thể, nhờ lý thuyết thanh-X (X-bar theory) (6), người ta có thể gói ghém hầu hết các cấu trúc tiếng Anh vào 3 quy tắc:
Quy tắc biệt định ngữ (specifier phrase rule): X’ --> (YP) X’
Quy tắc phụ ngữ (adjunct phrase rule): X’ --> X’ (ZP) | (ZP) X’
Quy tắc bổ ngữ (complement phrase rule): X’ --> X (WP)
Thế nhưng các quy tắc trên không thể giải thích mọi ngôn ngữ. Nó phải được mở rộng thành:
Quy tắc biệt định ngữ: X’ --> X’ (YP) | (YP) X’
Quy tắc phụ ngữ: X’ --> X’ (ZP) | (ZP) X’
Quy tắc bổ ngữ: X’ --> X (WP) | (WP) X
Kết quả, chúng có thể giải thích được các ngôn ngữ Ấn-Âu (Thổ, Ba Lan, Ý, ...), cả tiếng Tàu cũng không thành vấn đề, song đụng tới tiếng Việt là thất bại ngay. Tại sao? Bởi làm sao có thể giải thích được tính cảm đề của tiếng Việt, hoặc tính tỉnh lược, hoặc những loại từ không nằm trong các lớp từ “verb class”, “noun class”, “adjective class”, “prepositional class” mà xưa nay các nhà ngôn ngữ Tây phương cứ nghĩ ngôn ngữ tự nhiên (natural language) chỉ có chừng ấy mà thôi?
Nói ngắn gọn, nếu nghiên cứu kỹ về cú pháp học, chúng ta sẽ hiểu tại sao các quy tắc ngữ đoạn tiếng Anh không đủ giải thích tiếng Việt. Ðừng nên nghĩ văn hay hoặc dở là do cấu trúc. Muốn diễn tả thế nào đi nữa, chúng ta chỉ có bao nhiêu đó loại ngữ đoạn (động từ, danh từ, tính/trạng từ, giới từ); không thể chế thêm. Không ai phủ nhận cấu trúc ngôn ngữ là hạ tầng cơ sở của câu văn, song chưa hẳn đó đã là hạt nhân quyết định hoàn toàn văn phong của người viết. Viết hay/dở còn tùy vào cách dùng chữ, cách tỉnh lược, cách bố cục, ... và đặc biệt là ý tưởng. Người viết tiếng Anh/Pháp/Ðức/... cũng chỉ dùng bao nhiêu đấy loại ngữ đoạn để diễn đạt ý tưởng. Tiếng Việt cũng có các ngữ đoạn ấy.
Ðã nhìn thấy vấn đề, nay hãy đặt câu hỏi: Làm sao giải quyết được vấn đề đó? Có một điều rất rõ và nên nhìn nhận là mặt giáo dục ngôn ngữ của Việt Nam xưa nay rất yếu. Yếu đến nỗi người Việt dùng tiếng Việt còn không biết cấu trúc của nó thế nào. Nhiều người tự mãn, tiếng Việt hay lắm, phong phú lắm, sâu sắc lắm, v.v., tiếng Anh, tiếng Pháp không bằng, ... Không hiểu nhiều, không nhìn xa nhìn rộng mà cứ tự cao quá đáng. Mặt khác, vì nhìn xa nhìn rộng, nhưng không thực sự hiểu hết cái hay đặc trưng của tiếng Việt, thấy mình không bằng ai, mất tự tin rồi cứ thế mà sao y bản chính cái cấu trúc của người ta. Cả hai thái độ đều không giúp chúng ta giải quyết được vấn đề.
Nếu không có điều kiện học hỏi như ở các xứ tân tiến, chúng ta vẫn có cách giải quyết vấn đề như thường dù tương đối. Mỗi người Việt (biết tiếng Việt) đều nói đúng văn phạm (ngữ pháp) cả. Xin lưu ý là nói chứ không phải viết. Cái kho tàng quy tắc ngữ pháp còn nguyên vẹn đấy. Nó nằm trong vô thức của từng người. Ðó là cái lợi nếu biết vận dụng thẩm năng ngôn ngữ của mình. Người dịch thuật văn chương có thể thử nghiệm một trong hai giải thuật dịch ngoại ngữ sang tiếng Việt sau đây:
Giải thuật 1:
Bước 1: Dịch 1-1 đúng vị trí từng chữ/từ trong câu bản gốc.
Bước 2: Ðổi vị trí từ hoặc lược từ trong từng thành tố một sao đúng kiểu tiếng Việt, theo văn nói.
Bước 3: Ðổi vị trí thành tố sao cho đúng cách hành ngôn tiếng Việt (văn nói).
Bước 4: Chọn lọc từ ngữ, lược từ, mở rộng thành tố cho vừa ý.
Bước 5: Lập lại bước 1 cho câu kế tiếp.
Giải thuật 2:
Bước 1: Hiểu kỹ ý từng câu trong văn bản gốc. Ðể ý văn mạch, ngữ cảnh phía trước.
Bước 2: Dịch tất cả các từ trong câu văn bản gốc sang tiếng Việt.
Bước 3: Lẩm nhẩm trong miệng, với ý chính đó, ta sẽ nói bằng tiếng Việt thế nào cho xuôi rồi ghi lại. Xin lưu ý là văn nói chứ không phải văn viết.
Bước 4: Thêm các chi tiết còn lại cũng bằng văn nói.
Bước 5: Chuyển sang văn viết: Văn nói thường rất luộm thuộm. Cần trau chuốt. Chúng ta dùng các phương pháp như phép tỉnh lược, phép thế, phép mở rộng, ... ngoại trừ phép hoán vị.
Bước 6: Ðối chiếu nội dung văn viết bản dịch với bản gốc xem có sát nghĩa không.
Bước 7: Xem cách hành ngôn có quá xa rời văn nói hay không.
Bước 8: Lập lại bước 1 cho câu kế tiếp.
Ðành là có giải thuật, nhưng chưa hẳn là không có điều kiện. Ví dụ giải thuật 1 chỉ ứng dụng được đối với người dịch ít nhiều đã hiểu các nguyên tắc hành ngôn tiếng Việt (tính cảm đề, tính tịnh tiến, tính tỉnh lược, tính đề diễn, ...) cũng như đã hiểu thành tố, ngữ đoạn là gì. (Xem tóm lược trong chuyên luận cú pháp [Dũng Vũ 2001])
Nói gì thì nói, cách tốt nhất vẫn là nên tìm hiểu thêm về khoa học cú pháp và ngữ nghĩa.

越语论文题目越语论文题目
免费论文题目: